Tại sao các ấn phẩm quốc tế tại Việt Nam rất nhỏ?
Mặc dù khối lượng hàng hóa quốc tế của Việt Nam đã tăng nhanh trong năm năm qua, nhưng nó vẫn còn cách xa các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và Singapore. Theo các chuyên gia, lý do chính là hệ thống quản lý và chính các nhà khoa học.
Hướng và môi trường nghiên cứu
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn của Đại học New South Wales (Úc) tin rằng khoa học trong nước thiếu hướng nghiên cứu, vì vậy ông phải vật lộn với các môn học khác. Các chủ đề cũ thường khó xuất bản.
Đồng thời, các cơ quan tài trợ khoa học cấp bộ, cấp bộ và cấp nhà nước không xác định các vấn đề xuất bản quốc tế là tiêu chuẩn để tài trợ và chấp nhận. Do đó, các nhà khoa học tin rằng các ấn phẩm quốc tế là không cần thiết. Ngoài ra, môi trường hành chính của người Viking cũng kiềm chế ý chí của rất nhiều nhà nghiên cứu trẻ.
Theo giáo sư Trương Nguyễn Thanh, Phó chủ tịch Đại học Watson, các ấn phẩm quốc tế được coi là một trong những kết quả chính của nghiên cứu khoa học. , Nhưng đầu tư vào ngân sách quốc gia là không tương xứng. Một môi trường nghiên cứu khoa học tốt đòi hỏi các yếu tố sau: cơ sở hạ tầng, đặc biệt là phòng thí nghiệm, ngân sách và cơ chế quản lý rõ ràng, nguồn nhân lực và hệ thống hỗ trợ phát triển .
“Hoạt động nghiên cứu khoa học nước ngoài thường tập trung cao độ ở các trường đại học, trong khi Việt Nam. Hầu hết các phòng thí nghiệm đều ở trong các viện nghiên cứu. Mặt khác, có rất ít cơ chế hỗ trợ cho các giáo viên trẻ trong các trường đại học hoặc viện nghiên cứu “, giáo sư Thanh nói. Nghiêm túc, Giám đốc Phạm Đức Chinh của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam thẳng thắn nhấn mạnh rằng do sự trì trệ của giai đoạn khó khăn trước đó, Việt Nam tụt lại phía sau trong các thông báo quốc tế. Quán tính này có nghĩa là nhiều nhà khoa học, bao gồm cả những người đã được đào tạo ở nước ngoài nhưng không cần tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, đã dần mất đi tài năng của họ. Do đó, nước này phải thiết lập một cơ chế và chính sách để “gây áp lực lên khoa học Việt Nam” nhằm đạt được mục tiêu ngày càng trở nên phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Khoa học và Văn hóa
Không chỉ từ hệ thống quản lý, Giáo sư uan nhấn mạnh những hạn chế của chính nhà nghiên cứu nội tâm. Các nhà khoa học Việt Nam không hiểu văn hóa xuất bản quốc tế, cũng như tầm quan trọng và sự cần thiết của nó. Một số người thậm chí nghĩ rằng nghiên cứu cơ bản vừa được công bố quốc tế, và ứng dụng này không bắt buộc.
Khoa học hoặc bất kỳ nhà lãnh đạo cần nhu cầu chính để hướng dẫn “nhân sự cấp dưới”, điều này cho họ cơ hội tham gia vào sự nghiệp. Giảng viên nghiên cứu khoa học có kinh nghiệm, dẫn đến thực tế là các nhà khoa học trẻ đam mê muốn tiến hành nghiên cứu nhưng phải “từ bỏ”.
– Giới hạn ngôn ngữ
Một trở ngại khác khiến ISI hiếm khi xuất hiện trên các ấn phẩm tiếng Việt như một phương tiện viết bài báo khoa học và bị giới hạn trong ngoại ngữ. Thực tế, nhiều nhà khoa học trẻ muốn công bố kết quả nghiên cứu của họ Trong các tạp chí quốc tế, nhưng họ không biết cách viết các bài báo khoa học đạt tiêu chuẩn. Một số người có thể viết, nhưng tiếng Anh không đủ để viết một dự án hoàn chỉnh. Khả năng ngoại ngữ kém của các nhà văn Việt Nam được coi là một trong những lý do chính khiến các bài báo từ chối xuất bản. -Quá trình xuất bản bài báo trên các tạp chí quốc tế – Nhiều nhà khoa học tin rằng việc các dự án nghiên cứu bị tạp chí từ chối là một vấn đề “phổ biến” vì họ phải trải qua quá trình xem xét cẩn thận. Sau khi gửi dự án cho tạp chí, tổng biên tập sẽ xem xét chủ đề, tóm tắt và quyết định bổ nhiệm một trợ lý tổng giám đốc, người sẽ từ chối hoặc gửi nó để xem xét. Nếu bị từ chối, họ sẽ gửi thông báo bằng văn bản cho tác giả.
Nếu có thể, tác phẩm sẽ được gửi đến ít nhất 2-3 chuyên gia với những độc giả quan trọng có kiến thức chuyên sâu về chủ sở hữu. Dự án là hợp lệ. Nếu hầu hết các nhà phê bình đồng ý xuất bản, biên tập viên sẽ liên hệ với tác giả để đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc làm rõ các câu hỏi của người đánh giá. Nếu tác giả sửa quá nhiều sau bình luận đầu tiên, ban biên tập sẽ lại chỉ trích. Cuối cùng, biên tập viên thông báo cho tác giả dựa trên quyết định của trợ lý biên tập viên và người đánh giá.
Khả năng từ chối phụ thuộc vào yếu tố tác động (FI) của tờ báo. Âm lượng IF càng cao, tỷ lệ loại bỏ càng cao. Ví dụ, các tạp chí như BMJ (tạp chí y khoa hàng đầu thế giới) nhận được khoảng 1.000 bản thảo mỗi năm và từ chối chấp nhận 70% đến 95% bản thảo. Trong giai đoạn đầu tiên, 50% các mặt hàng đã bị từ chối, nghĩa là chúng không cần phải được gửi đến kiểm tra, và sau khi vượt qua kiểm tra, 45% các mặt hàng đã bị từ chối.Lần đầu tiên, sau khi xem xét lần thứ hai đã bị từ chối 5%.
Các nhà khoa học và độc giả có bài viết chia sẻ kinh nghiệm liên quan đến các ấn phẩm quốc tế, vui lòng gửi đến Khoahoc @ vnexpress.net.
Phạm Hương